UNESCO là một tổ chức của Liên Hợp quốc được biết đến rộng rãi trên khắp thế giới. Ở Việt Nam, Tổ chức này cùng không còn xa lạ gì. Vậy UNESCO là tổ chức gì và chức năng nhiệm vụ của nó là gì?
UNESCO là gì?
UNESCO là tên viết tắt tiếng anh của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc. Tên đầy đủ là United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization. Đây là một cơ quan chuyên môn lớn của Liên hợp quốc. Trụ sở được đặt tại Paris, Pháp.
Mục đích của UNESCO là “thắt chặt sự hợp tác giữa các quốc gia về giáo dục, khoa học và văn hóa để đảm bảo sự tôn trọng công lý, luật pháp, nhân quyền và tự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ, tôn giáo”. UNESCO là sự kế thừa của Ủy ban Quốc tế về hợp tác trí tuệ League of Nations.
UNESCO có 193 quốc gia thành viên và 11 thành viên liên kết. Hầu hết các văn phòng hiện tại của nó là các văn phòng khu vực bao gồm ba hoặc nhiều quốc gia.
Thành lập | 16 tháng 11 năm 1945 |
---|---|
Trụ sở | ![]() |
Trang web | https://unesco.org/ |
Trực thuộc | Liên Hiệp Quốc |
UNESCO theo đuổi mục tiêu của mình thông qua năm chương trình chính: giáo dục, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội/con người, văn hóa và truyền thông/thông tin. Các dự án do UNESCO tài trợ bao gồm chương trình xóa mù chữ, kỹ thuật và đào tạo giáo viên, chương trình khoa học quốc tế, quảng bá truyền thông độc lập và tự do báo chí, các dự án lịch sử văn hóa khu vực, thúc đẩy đa dạng văn hóa, dịch thuật văn học thế giới, thỏa thuận hợp tác quốc tế bảo vệ di sản văn hóa và tự nhiên của thế giới và bảo vệ quyền con người, cố gắng thu hẹp khoảng cách kỹ thuật số trên toàn thế giới. Đây cũng là thành viên của Nhóm Phát triển Liên Hợp Quốc.
Mục tiêu của UNESCO là “Góp phần xây dựng hòa bình, xóa đói giảm nghèo, phát triển bền vững và đối thoại liên văn hóa thông qua giáo dục, khoa học, văn hóa, truyền thông và thông tin“. Các ưu tiên khác của tổ chức bao gồm đạt được chất lượng Giáo dục cho tất cả mọi người, giải quyết các thách thức xã hội và đạo đức mới nổi, thúc đẩy đa dạng văn hóa, văn hóa hòa bình và xây dựng xã hội tri thức thông qua thông tin và truyền thông.
Lịch sử hình thành và phát triển
Việc thành lập UNESCO được đưa ra từ nghị quyết của Liên minh các quốc gia vào ngày 21 tháng 9 năm 1921, để bầu ra một Ủy ban nghiên cứu. Vào ngày 18 tháng 12 năm 1925, Văn phòng Giáo dục Quốc tế (IBE) bắt đầu hoạt động như một tổ chức phi chính phủ phục vụ phát triển giáo dục quốc tế.
Sau khi ký Hiến chương Đại Tây Dương và Tuyên bố Liên hợp quốc, Hội nghị Bộ trưởng Giáo dục Đồng minh (CAME) đã bắt đầu các cuộc họp tại Luân Đôn kéo dài từ 16 tháng 11 năm 1942 đến 5 tháng 12 năm 1945. Vào ngày 30 tháng 10 năm 1943, sự cần thiết của một tổ chức quốc tế đã được thể hiện trong Tuyên bố Moscow, được Trung Quốc, Vương quốc Anh, Hoa Kỳ và Liên Xô đồng ý. Tiếp theo là các đề xuất của Hội nghị Dumbarton Oaks ngày 9 tháng 10 năm 1944. Theo đề xuất của CAME và theo các khuyến nghị của Hội nghị Liên hợp quốc về Tổ chức Quốc tế (UNCIO), được tổ chức tại San Francisco vào tháng 4 năm 1945, một Hội nghị của Liên hợp quốc về việc thành lập một tổ chức giáo dục và văn hóa (ECO/CONF) đã được triệu tập tại Luân Đôn ngày 1 tháng 11 năm 1945 với 44 chính phủ đại diện. Ý tưởng của UNESCO phần lớn được phát triển bởi Rab Butler , Bộ trưởng Bộ Giáo dục Vương quốc Anh. Đại hội đồng đầu tiên diễn ra từ ngày 19 tháng 11 đến ngày 10 tháng 12 năm 1946 và bầu Tiến sĩ Julian Huxley làm Tổng giám đốc.
Trong số những thành tựu chính của tổ chức đáng chú ý là hoạt động chống phân biệt chủng tộc. Năm 1956, Cộng hòa Nam Phi đã rút khỏi UNESCO và nói rằng một số ấn phẩm của tổ chức đã gây ra “sự can thiệp” vào “vấn đề chủng tộc” của đất nước. Nam Phi gia nhập lại tổ chức vào năm 1994 dưới sự lãnh đạo của Nelson Mandela.
Công việc ban đầu của UNESCO trong lĩnh vực giáo dục bao gồm dự án thí điểm về giáo dục cơ bản ở Thung lũng Marbial, Haiti, bắt đầu vào năm 1947. Dự án này được tiếp nối bởi các phái đoàn chuyên gia đến các quốc gia khác. Năm 1948, UNESCO khuyến nghị các quốc gia thành viên nên thực hiện giáo dục tiểu học miễn phí bắt buộc và phổ cập. Năm 1990, Hội nghị Thế giới về Giáo dục cho Tất cả mọi người tại Jomtien , Thái Lan, đã phát động một phong trào toàn cầu nhằm cung cấp giáo dục cơ bản cho tất cả trẻ em, thanh thiếu niên và người lớn. Mười năm sau, Diễn đàn Giáo dục Thế giới năm 2000 được tổ chức tại Dakar, Sénégal, lãnh đạo các chính phủ thành viên cam kết đạt được giáo dục cơ bản cho tất cả mọi người vào năm 2015.
Các hoạt động ban đầu của UNESCO về văn hóa là Chiến dịch Nubia, được phát động vào năm 1960. Mục đích của chiến dịch là di chuyển Đền thờ lớn Abu Simbel để giữ cho nó không bị sông Nile tràn ngập sau khi xây dựng đập Aswan. Trong chiến dịch 20 năm, 22 di tích và quần thể kiến trúc đã được di dời. Đây là chiến dịch đầu tiên và lớn nhất trong một loạt các chiến dịch bao gồm Mohenjo-daro (Pakistan), Fes (Morocco), Kathmandu (Nepal), Borobudur (Indonesia) và Acropolis (Hy Lạp). Năm 1972, thông qua Công ước liên quan đến Bảo vệ Di sản Văn hóa và Tự nhiên Thế giới. Các Ủy ban Di sản Thế giới được thành lập vào năm 1976 và các trang web đầu tiên ghi trên danh sách Di sản Thế giới vào năm 1978.
Một cuộc họp liên chính phủ của UNESCO tại Paris vào tháng 12 năm 1951 đã dẫn đến việc thành lập Hội đồng nghiên cứu hạt nhân châu Âu, chịu trách nhiệm thành lập Tổ chức nghiên cứu hạt nhân châu Âu (CERN) vào năm 1954.
Lập trình Arid Zone, 194811966, là một ví dụ khác về một dự án lớn đầu tiên của UNESCO trong lĩnh vực khoa học tự nhiên. Năm 1968, UNESCO đã tổ chức hội nghị liên chính phủ đầu tiên nhằm hòa giải môi trường và phát triển, một vấn đề tiếp tục được giải quyết trong lĩnh vực phát triển bền vững. Kết quả chính của hội nghị năm 1968 là việc thành lập Chương trình Con người và Sinh quyển của UNESCO.
Trong lĩnh vực truyền thông, “luồng ý tưởng tự do bằng lời nói và hình ảnh” đã có trong hiến pháp của UNESCO từ khi bắt đầu, sau kinh nghiệm của Chiến tranh thế giới thứ hai khi kiểm soát thông tin là yếu tố thúc đẩy sự xâm lược. Trong những năm ngay sau Thế chiến II, các nỗ lực tập trung vào tái thiết và xác định nhu cầu về phương tiện truyền thông đại chúng trên toàn thế giới. UNESCO bắt đầu tổ chức đào tạo và giáo dục cho các nhà báo vào những năm 1950. Để đáp lại lời kêu gọi “Trật tự thông tin và truyền thông thế giới mới” vào cuối những năm 1970, UNESCO đã thành lập Ủy ban quốc tế về nghiên cứu các vấn đề truyền thông – Báo cáo MacBride. Cùng năm đó, UNESCO đã tạo ra Chương trình quốc tế về phát triển truyền thông (IPDC), một diễn đàn đa phương được thiết kế để thúc đẩy phát triển truyền thông ở các nước đang phát triển. Năm 1991, Đại hội đồng của UNESCO đã thông qua Tuyên bố Windhoek về độc lập truyền thông và đa nguyên, khiến Đại hội đồng Liên Hợp Quốc tuyên bố ngày 3 tháng 5, là Ngày Tự do Báo chí Thế giới. Từ năm 1997, UNESCO đã trao tặng Giải thưởng Tự do Báo chí Thế giới của UNESCO / Guillermo Cano vào ngày 3 tháng 5 hằng năm.
Các tổ chức phi chính phủ của UNESCO
UNESCO có quan hệ chính thức với 322 tổ chức phi chính phủ quốc tế (NGO). Hình thức liên kết cao nhất với UNESCO là “cộng tác viên chính thức” và 22 tổ chức phi chính phủ có quan hệ liên kết chính thức (ASC) có văn phòng tại UNESCO là:
Tên viết tắt | Cơ quan |
---|---|
IB | Tú tài quốc tế |
CCIVS | Ủy ban điều phối dịch vụ tự nguyện quốc tế |
EI | Giáo dục quốc tế |
IAU | Hiệp hội các trường đại học quốc tế |
IFTC | Hội đồng quốc tế về điện ảnh, truyền hình và truyền thông nghe nhìn |
ICPHS | Hội đồng quốc tế về triết học và nghiên cứu nhân văn |
ICSU | Hội đồng khoa học quốc tế |
ICOM | Hội đồng bảo tàng quốc tế |
ICSSPE | Hội đồng khoa học thể dục và thể thao quốc tế |
ICA | Hội đồng lưu trữ quốc tế |
ICOMOS | Hội đồng quốc tế về di tích và di chỉ |
IFJ | Liên đoàn nhà báo quốc tế |
IFLA | Liên đoàn quốc tế của các hiệp hội và tổ chức thư viện |
IFPA | Liên đoàn thơ văn quốc tế |
IMC | Hội đồng âm nhạc quốc tế |
IPA | Hiệp hội cảnh sát quốc tế |
INSULA | Hội đồng khoa học quốc tế về phát triển đảo |
ISSC | Hội đồng khoa học xã hội quốc tế |
ITI | Học viện sân khấu quốc tế |
IUCN | Liên minh quốc tế về bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên |
IUTAO | Liên hiệp quốc tế của các hiệp hội và tổ chức kỹ thuật |
UIA | Liên hiệp các hiệp hội quốc tế |
WAN | Hiệp hội báo chí thế giới |
WFEO | Liên đoàn các tổ chức kỹ thuật thế giới |
WFUCA | Liên đoàn các câu lạc bộ, trung tâm và hiệp hội thế giới của UNESCO |
UNESCO Việt Nam
Việt Nam có rất nhiều các di sản thế giới, khu dự trữ sinh quyển thế giới, di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại… đã được UNESCO công nhận.
Việt Nam có 8 di sản thế giới
2 Di sản thiên nhiên thế giới
- Vịnh Hạ Long được công nhận năm 1994
- Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng được công nhận năm 2003.

5 Di sản văn hóa thế giới
- Quần thể di tích Cố đô Huế được công nhận năm 1993.
- Phố Cổ Hội An được công nhận năm 1999.
- Thánh địa Mỹ Sơn được công nhận năm 1999.
- Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long được công nhận năm 2010.
- Thành nhà Hồ được công nhận năm 2011.
1 Di sản thế giới hỗn hợp
- Quần thể danh thắng Tràng An được công nhận năm 2014
Việt Nam có 12 di sản văn hóa phi vật thể
- Nghệ thuật Bài Chòi Trung Bộ được công nhận ngày 7/12/2017.
- Tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam được công nhận ngày 1/12/2016.
- Nghi lễ Kéo co ở Việt Nam được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đa quốc gia vào ngày 02/12/2015.
- Dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh được công nhận vào ngày 27/11/2014.
- Đờn ca tài tử Nam Bộ được công nhận vào ngày 5/12/2013.
- Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương được công nhận vào ngày 6/12/2012.
- Hát xoan (Phú Thọ) được công nhận ngày 24/11/2011.
- Hội Gióng tại đền Sóc và đền Phù Đổng, Hà Nội được công nhận ngày 16/11/2010.
- Ca trù được công nhận ngày 01/10/2009.
- Dân ca Quan họ được công nhận ngày 30/9/2009.
- Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên được công nhận là kiệt tác truyền khẩu và di sản văn hóa phi vật thể thế giới vào năm 2005, đến năm 2008 được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
- Nhã nhạc cung đình Huế được công nhận tháng 11 năm 2003.
Khu dự trữ sinh quyển thế giới tại Việt Nam
- Rừng ngập mặn Cần Giờ được công nhận 2000.
- Đồng Nai được công nhận 2011.
- Cát Bà được công nhận 2004.
- Châu thổ sông Hồng được công nhận 2004.
- Ven biển và biển đảo Kiên Giang được công nhận 2006.
- Miền tây Nghệ An được công nhận 2007.
- Mũi Cà Mau được công nhận 2009.
- Cù Lao Chàm được công nhận 2009.
- Langbian được công nhận 2015.